Cách sử dụng Phím compose

Phím compose phân biệt với một phím bổ trợ điển hình (chẳng hạn như phím AltGr hoặc ⌥ Option) ở chỗ, thay vì nó được nhấn và giữ trong khi ấn phím khác để tổ hợp, nó được nhấn và thả ra trước khi tiếp tục ấn các phím sẽ được bổ trợ. Thông thường, sau compose, hệ thống nhập văn bản không hiển thị bất kỳ phím nào được nhấn cho đến khi ký tự đã kết hợp xuất hiện sau phím cuối cùng của một trình tự nhấn phím đã định trước. Do đó, phím compose đôi khi cũng có thể được mô tả chung như là một loại phím chết. Điều làm cho phím compose khác biệt với một phím chết là trong khi mỗi phím chết chỉ có thể được sử dụng để chèn một dấu phụ cụ thể lên một số ký tự cơ sở, phím compose có thể được sử dụng để cho ra bất kỳ loại ký tự nào được hỗ trợ bởi bộ mã hóa ký tựphông chữ đang được sử dụng. Bằng cách này, một loạt rộng hơn các ký tự đặc biệt có thể được thực hiện trên một bàn phím với số lượng các phím giới hạn. Nhập ký tự gồm nhiều dấu phụ cũng được hỗ trợ, nhấn tuần tự Compose^'a sẽ được .

Nói một cách dễ hiểu, ký tự được sinh ra bằng một trình tự nhấn kèm phím compose có thể được coi như là một ký tự hỗn hợp, nhưng nó không cần phải là ký tự có thể phân tách ra được theo nghĩa đen, hoặc có hình dạng tương tự như các ký tự bình thường được gõ bằng các phím tương tự (nghĩa là gõ mà không cần nhấn compose trước tiên). Tuy nhiên, thường có một số liên hệ giúp làm cho dãy nhấn phím dễ nhớ hơn. Ví dụ, gõ Compose, tiếp theo T rồi sau đó, H có thể nhận được ký tự þ trong tiếng Iceland (cũng như trong tiếng Bắc Âu cũtiếng Anh cổ), mà tuơng đuơng về mặt ngữ âm với chữ ghép hiện đại th.

Nhược điểm chính của nhập bằng compose là các trình tự soạn thảo luôn yêu cầu ít nhất một lần nhấn phím. Vị trí trên bàn phím của compose không tiện cũng có thể dẫn tới gõ chậm.